CHỦ NGHĨA MARX VỚI LÝ THUYẾT QUEER (PHẦN III)

Nếu chúng ta vẫn ở trong môi trường sống tự nhiên của Lý thuyết Queer, thế giới của những bài báo học thuật, cuộc tranh luận này có vẻ giống như một thứ hồi hộp trí tuệ mà trong đó người ta trao qua đổi lại các trích dẫn triết học lỗi thời. Tuy nhiên, như chúng tôi đã viết lúc đầu, cơ sở triết học cũng dẫn đến những kết luận thực tiễn nhất định.


Sự toàn năng của quyền lực trong Lý thuyết Queer có nghĩa là chúng ta không bao giờ có thể thoát khỏi nó, rằng mọi sự kháng cự chỉ là một biểu hiện của chính quyền lực và tới cùng chỉ để phục vụ cho sự ổn định. Do đó, câu nói tương đối nổi tiếng của Foucault rằng sự kháng cự “không bao giờ ở vị trí bên ngoài mối tương quan với quyền lực”, và do đó chỉ “có thể, không tránh được, không chắc chắn, một cách tự phát, cuồng dại, đơn độc, phối hợp, hung hăng hoặc dữ dội... chóng thỏa hiệp, thích thú hoặc hiến tế” sự kháng cự. ( Lịch sử về tình dục : 95-96.)

“Những hiểu biết sâu sắc và thực tiễn gần đây xung quanh ‘queer’, đặt câu hỏi về niềm tin vào khả năng thay đổi xã hội một cách lâu dài hoặc giải phóng nói chung.” (Jagose, trang 61.)

Sự bi quan tuyệt đối này đối với các phong trào xã hội, niềm tin rằng bất kỳ sự kháng cự nào cũng tự động bị tiêu diệt, cho thấy những nhà triết học này hiểu rất ít về các phong trào cách mạng trong những năm 1960 - 1970 và lý do cho sự thất bại của chúng. Chúng phản ánh sự vô vọng đến bế tắc của nữ quyền, của giai cấp tiểu tư sản không có lòng tin vào giai cấp công nhân (ấy là nếu họ có tin rằng nó tồn tại). Thay vì hiểu và chỉ trích vai trò của lãnh đạo các tổ chức quần chúng, họ tìm kiếm những cách thức mới của “sự kháng cự” mà không có ý tưởng rõ ràng rằng sự kháng cự này nhằm chống lại ai hoặc cái gì, và nên sử dụng phương pháp nào. Khả năng lật đổ hệ thống cầm quyền dường như là bất khả thi và không thể.
Như hệ quả, Lý thuyết Queer cho thấy một thực tiễn làm cho ngay cả chủ nghĩa cải cách ôn hòa nhất trông cũng có vẻ triệt để. Nó rút lui hoàn toàn vào lĩnh vực văn hóa và ngôn ngữ. Cần có các “ngôn ngữ” mới cho bản sắc, một sự phát triển “ngữ pháp mới” hoặc soạn thảo một “đạo đức mới” (Gayle Rubin). Chẳng hạn, để “bộc lộ” ra ảo tưởng về giới tính, Butler đề nghị nhại lại bản sắc giới thông qua các “tập quán văn hóa của sự lôi kéo, mặc quần áo và cách điệu tình dục cho bản sắc butch/femme.” ( GT , trang 137.) Đây là gợi ý thiết thực duy nhất trong toàn bộ cuốn sách Rắc rối giới tính! Và Nancy Fraser, nhẹ nhõm, giải thích:

“Tin tốt là chúng ta không cần phải lật đổ chủ nghĩa tư bản để khắc phục [điều kiện bất lợi về kinh tế của người đồng tính] - mặc dù chúng ta có thể cần phải lật đổ nó vì những lý do khác. Tin xấu là chúng ta cần phải thay đổi trật tự trạng thái hiện có và cơ cấu lại những mối quan hệ được thừa nhận.” (trang 285.)

Nói cách khác chúng ta cần cải thiện hình ảnh của đồng tính luyến ái. Ở đây, Fraser, người có khuynh hướng thực tế hơn, công khai thể hiện chủ nghĩa cải cách của mình: may mắn thay, cô không phải lật đổ chủ nghĩa tư bản! Cô chỉ phải thay đổi cách xã hội nhìn nhận đồng tính luyến ái! Không có gì lạ khi Lý thuyết Queer đã được một số nhà cải cách sẵn lòng đón nhận vào các tổ chức của công nhân để trốn tránh trách nhiệm lãnh đạo một cuộc đấu tranh thực sự chống phân biệt đối xử, đình công, nói ngắn gọn là phương pháp đấu tranh giai cấp, và thay vào đó tập trung với yêu cầu cải cách ngôn ngữ, hạn ngạch, không gian văn hóa tự do và lối băng qua đường với màu cầu vồng.

Bằng cách bỏ qua câu hỏi giai cấp, Lý thuyết Queer không chỉ là một công cụ hữu ích trong tay các quan chức trong các tổ chức của công nhân, nó còn đóng vai trò là sự biện minh về ý thức hệ cho một bộ phận của giai cấp tư sản và các nhà tư bản để thể hiện mình như là người bạn của LGBT và vẽ lên một hình ảnh tự do và tiến bộ cho bản thân. Các tập đoàn như Apple hay Coca Cola, những người đang khai thác hàng chục ngàn người trong điều kiện làm việc tồi tệ, lại hỗ trợ các chiến dịch LGBT trong các công ty của họ hoặc tài trợ cho các xe thùng phát rượu miễn phí tại các cuộc diễu hành Niềm kiêu hãnh được thương mại hóa. Để tài trợ cho việc sản xuất những ý tưởng có vẻ cấp tiến, nhưng thực sự hoàn toàn vô hại (với giai cấp thống trị), hàng ngàn Euro đã được dành cho các giáo sư nghiên cứu về giới, các khoa và các học bổng nghiên cứu về queer, trong khi các phương tiện truyền thông tự do và nhà xuất bản in các bài báo và tiểu thuyết nhân từ.

Nhiều nhà hoạt động queer nhận thức được những khuynh hướng này và rõ ràng phản đối sự hợp tác với hệ thống cầm quyền. Tuy nhiên, Lý thuyết Queer không đưa ra những ý tưởng cần thiết để chống lại sự áp đặt này từ giai cấp thống trị; trái lại, đó là một phần của hệ tư tưởng cầm quyền, cá nhân hóa và che đậy sự bóc lột và áp bức, đồng thời chia rẽ cuộc đấu tranh thống nhất chống lại hệ thống, chính xác bởi cuộc đấu tranh thống nhất là thứ xa lạ với Thuyết Queer.

Mặc dù bản thân nó có nguồn gốc như là một sự phê phán chính trị bản sắc truyền thống trong những năm 1970 và 1980, thứ bị bao quanh bởi tâm trạng luẩn quẩn và đấu đá nội bộ, nó đã thất bại để thực sự vượt qua loại chính trị bản sắc này. Vì chúng ta không thể thoát khỏi sự toàn năng của quyền lực trong xã hội, nên cũng không thể thoát khỏi bản sắc mặc dù chúng được xem là hư cấu.

Kể từ khi danh tính “là, trong phạm vi quyền lực của tình dục, không thể tránh khỏi” (GT, trang 40), hy vọng tốt nhất có thể của chúng ta là “nhại lại” những bản sắc này, lý thuyết Queer, đã bắt đầu như một sự phê bình chính trị bản sắc, kết thúc chính xác nơi nó bắt đầu: với chính trị bản sắc. Trong thực tế, những cuộc cãi vã lâu đời của những người có thể đại diện cho những người tiếp tục không nao núng, giống như trong giới nữ quyền cấp tiến (và cả những người chống lại họ). Butler nói một cách khéo léo: “Rõ ràng, nhiệm vụ chính trị là không từ chối chính trị đại diện, như thể nếu chúng ta có thể. (GT, trang 8.)

Bất kỳ hình thức hành động tập thể và đoàn kết đấu tranh của tất cả những người bị áp bức đều trở thành một cuộc đấu tranh, bởi “sự đoàn kết” và sự đại diện của mối quan hệ tự động dẫn đến sự áp bức độc đoán và bạo lực: “sự đoàn kết chỉ giành được thông qua việc rũ bỏ bạo lực.” (Butler, Văn hóa đơn thuần, trang 44.)

Điều này dẫn đến việc cá nhân hóa những người chống lại hệ thống áp bức mà chúng ta đang sống trong đó. Chẳng hạn, như nhà nữ quyền queer Franziska Haug đã phàn nàn rằng, “bản sắc của cá nhân - nguồn gốc, văn hóa, giới tính, v.v. - trở thành mấu chốt của vấn đề” trong các cuộc tranh luận của nữ quyền queer, và “quyền được nói và chiến đấu được quyết định tùy thuộc về danh tính của người thuyết minh” (Haug, trang 236.). Có một cuộc cạnh tranh về việc ai là kẻ bị áp bức nhất và do đó có quyền phát ngôn, và ai không thể phản đối. Đối mặt với những cuộc cãi vã không đáng mong đợi, chúng ta thường được nghe những lời buộc tội dọc theo dòng của bạn, “bạn là một người đàn ông da trắng / Nữ thẳng / người chuyển giới da trắng không có quyền không đồng ý với tôi, hoặc thu hồi quan điểm chủ quan của tôi.”

Trong khi cố gắng loại trừ không sót một ai thông qua “những khái quát bạo lực”, vô số những bản sắc được tạo ra với đủ những kết hợp có thể nào là về tình dục, sự lãng mạn, giới và những sở thích khác và đang được phân phát dọc theo các nhánh Queer. Thay vì một cuộc đấu tranh thống nhất của tất cả những người muốn chiến đấu chống lại hệ thống, logic này thường dẫn đến việc xô đẩy và loại trừ giữa các nhóm khác nhau. Một người theo chủ nghĩa nữ quyền queer đưa ra một giải thích sinh động về điều này trong bài báo của cô, “Đoàn kết Nữ quyền đằng sau Lý thuyết Queer” đọc gần giống như là tâm sự tuyệt vọng và nỗi lòng thầm kín:

“Mặc cho những băn khoăn của bản thân về thuật ngữ lưỡng tính, mô tả này cung cấp một nơi chốn cho tôi, khi mà mọi nơi khác chỉ làm tôi cảm thấy tệ hơn. Cả hai không gian dị tính và đồng tính nữ đều có những an ủi riêng dành cho phụ nữ vậy mà tôi thường bị loại khỏi cả hai. Tôi cũng được cho biết rằng mình cần phải thay đổi thành những không gian đó - bằng cách thực sự trở thành người dị tính hoặc đồng tính - và tôi đã cảm nhận được những khoảnh khắc của sự thật cũng như sự giả hình và sự tự mãn của những yêu cầu đó. Song hành cả sự cần thiết và rắc rối khi tìm kiếm một nơi chốn như một giới hoặc giới tính: cần thiết bởi vì cộng đồng, sự công nhận và sự ổn định là điều cần thiết cho con người, cho sự phản kháng chính trị và rắc rối bởi vì trong thực tiễn quá thường xuyên diễn ra trong tư tưởng chính trị và sự hình thành nhóm độc quyền hay bá quyền.” (Cressida J. Heyes, 1.097)

Từ những dòng này, chúng ta có thể cảm nhận được sự khốn khổ được tạo nên bởi những áp lực và sự áp bức của chủ nghĩa tư bản và những gì họ làm đối với tâm lý và lòng tự trọng của chúng ta. Nhưng nó cũng cho thấy sự bế tắc của chính trị bản sắc. Mặc dù bài báo tự đặt ra nhiệm vụ tìm kiếm một hình thức đoàn kết giữa tất cả các nhà nữ quyền, nhưng nó không thể tưởng tượng được một sự thống nhất không dựa trên bản sắc. Trong thực tế, chính trị bản sắc dẫn đến sự chia rẽ trong phong trào. Chẳng hạn, tại Vienna, đã có hai cuộc tuần hành riêng biệt vào ngày quốc tế phụ nữ 8 tháng 3 trong nhiều năm: một bởi các nhà nữ quyền cấp tiến (chỉ có thể có sự tham gia của phụ nữ, và trong một khối riêng, bởi những người LGBT), và một bởi những nhà hoạt động queer (lúc đầu không có trai thẳng, nhưng kể từ năm 2019, tất cả những người coi mình là nữ quyền đều có thể tham dự). Một cuộc biểu tình thống nhất đã bị từ chối bởi cả hai bên.

Điều tự nhiên là nhiều người, đặc biệt là những người trẻ tuổi, đặt ra sự hoài nghi về các chuẩn mực được thiết lập trong xã hội như vai trò của tình dục và giới. Luôn là vậy và những Marxist chúng tôi bảo vệ quyền của tất cả mọi người để thể hiện và xác định bản thân theo cách họ muốn. Nhưng vấn đề phát sinh ở đây là khi kinh nghiệm cá nhân của mỗi người được lý thuyết hóa, nâng lên mức độ của một nguyên tắc triết học và khái quát cho toàn bộ xã hội và tự nhiên. Các nhà lý thuyết Queer nói với chúng ta rằng queer hay phi nhị nguyên (non-binary) là tiến bộ và thậm chí mang tính cách mạng, trái ngược với nhị nguyên (tức là nam hoặc nữ, mà đại đa số nhân loại là), được coi là phản động. Tuy nhiên, ở đây chính là Lý thuyết Queer cho thấy khía cạnh phản động của nó. Đối với tất cả các cuộc nói chuyện cấp tiến chống lại áp bức, nó phản đối một cuộc đấu tranh giai cấp thống nhất và thúc đẩy sự nguyên tử hóa các cá nhân trên cơ sở ham muốn tình dục và cá nhân, chia giai cấp công nhân thành các thực thể nhỏ hơn bao giờ hết. Trong khi đó, toàn bộ tòa lâu đài bóc lột và áp bức của chủ nghĩa tư bản vẫn cứ tồn tại.

Vì sự đoàn kết giai cấp công nhân!

Đối với những người theo chủ nghĩa Marx, sự thống nhất trong đấu tranh không dựa trên văn hóa hay bản sắc, và cũng không phải là một câu hỏi đạo đức. Thay vào đó, chúng tôi nhấn mạnh sự cần thiết thống nhất giai cấp công nhân như là lực lượng duy nhất có thể chấm dứt sự bóc lột và áp bức, bởi vai trò của nó trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Xã hội của chúng ta được định nghĩa cơ bản bằng cách chúng ta sản xuất, bởi sản xuất thực phẩm, nhà cửa, năng lượng - mọi thứ chúng ta cần để sống - là cơ sở cho cách chúng ta có thể sống cuộc sống của mình. Có đủ thực phẩm để cho phép phát triển khoa học và văn hóa vượt xa hơn nhu cầu sống sót? Khoa học có thể phát triển các phương tiện sản xuất của chúng ta để độ công việc có thể giảm và thời gian có thể được giải phóng cho nghiên cứu, giáo dục...? Cơ sở kinh tế quyết định cách chúng ta làm việc và sống trong xã hội của chúng ta và do đó, đạo đức, luật pháp hoặc giá trị chiếm ưu thế (mặc dù mối quan hệ này không phải là máy móc, như các nhà phê bình của Marx muốn tuyên bố, mà là biện chứng.)

Xã hội của chúng ta được chia thành các giai cấp không phải bởi đặc điểm văn hóa như ai đó giàu hay nghèo (đúng hơn đây là hậu quả của phân chia giai cấp nơi mà mỗi người thuộc về). Các giai cấp được xác định bởi vai trò của họ trong quá trình sản xuất. Trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp chính là giai cấp các nhà tư bản, những người sở hữu các phương tiện sản xuất như nhà máy và đất đai và giai cấp công nhân, phải bán sức lao động của mình để tồn tại từ tiền lương kiếm được. Mâu thuẫn nằm ở chỗ, đại đa số những người sản xuất ra xã hội trong các nhà máy và các công ty trong một bộ phận lao động toàn thế giới, trong khi thành quả lao động của họ bị chiếm đoạt một cách riêng tư bởi một thiểu số nhỏ bé. Khi nhóm thiểu số các nhà tư bản này cạnh tranh với nhau, dưới sự hỗn loạn của thị trường thế giới và chỉ vì lợi nhuận của họ, điều này dẫn đến khủng hoảng định kỳ, và là lý do tại sao tài nguyên của xã hội chúng ta không thể được sử dụng để đảm bảo một cuộc sống tốt cho tất cả nhân loại. Sự bóc lột này là cơ sở quyết định cho sự áp bức và phân biệt đối xử. Chủ nghĩa xã hội có nghĩa là giải quyết mâu thuẫn của sản xuất xã hội / sở hữu tư nhân bằng cách đưa sản xuất vào tay chúng ta, dưới sự kiểm soát của xã hội, nghĩa là bằng cách chiếm đoạt thiểu số các nhà tư bản ký sinh.

Từ đây, theo sau đó là sự thống nhất của giai cấp công nhân bắt nguồn từ những điều kiện hiện tại. Một cuộc sống tốt cho giai cấp công nhân - lương cao hơn, thời gian làm việc ngắn hơn, hệ thống phúc lợi chất lượng cao - chỉ có thể được thực hiện bằng cách chống lại lợi ích của các nhà tư bản, bởi vì điều này sẽ trực tiếp cắt giảm lợi nhuận của họ. Những người Marxist coi nhiệm vụ của mình là làm cho mối quan tâm chung này của giai cấp công nhân càng rõ ràng càng tốt để củng cố sự thống nhất của chúng ta, bởi có như vậy chúng ta mới có thể lật đổ hệ thống bóc lột này. Đó là lý do tại sao Marxist chiến đấu quyết liệt chống lại bất kỳ loại phân chia nào; nghĩa là, chống phân biệt chủng tộc, định kiến ​​phân biệt giới tính và các hình thức phân biệt đối xử khác, bất kể người đề xuất quan điểm đó là chính trị gia, nhà tư bản hay công nhân. Chúng tôi chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử, nhưng trái ngược với chính trị bản sắc, chúng tôi không thấy về cơ bản giữa các giới hay khuynh hướng tình dục khác nhau có sự khác biệt về lợi ích. Mặt khác, các giai cấp khác nhau có lợi ích khác nhau (tức là có kẻ thắng thì phải có người thua thiệt).

Một cách khách quan, có đủ sự giàu có trong xã hội của chúng ta để tạo ra một cuộc sống thoải mái cho mọi người. Có đủ thực phẩm, và chúng ta có công nghệ để giảm thời gian làm việc một cách mạnh mẽ và vẫn hoàn thành mọi công việc xã hội. Chúng ta cũng đáp ứng được tất cả các điều kiện tiên quyết để xã hội hóa công việc gia đình (dọn dẹp, nấu ăn, nuôi con, chăm sóc người già), mà ngày nay một phần lớn được thực hiện trong tổ chức gia đình. Điều này có thể đạt được bằng cách mở bếp ăn chung và nhà trẻ công cộng, và đầu tư vào một hệ thống phúc lợi và chăm sóc sức khỏe tốt. Những biện pháp này sẽ loại bỏ cơ sở vật chất của gia đình tư bản, nhốt phụ nữ vào một cái lồng áp bức và là cơ sở cho sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính và giới. Không có áp lực vật chất và sự phụ thuộc, quan hệ của con người có thể phát triển thành các hiệp hội thực sự tự do, đó sẽ là một bước tiến cho tất cả, nam cũng như nữ. Khoa học, giáo dục, văn hóa và ngôn ngữ sẽ được giải phóng khỏi động cơ lợi nhuận và lợi ích của giai cấp thống trị, vốn liên tục chia rẽ chúng ta và khiến chúng ta thất vọng. Văn hóa của con người có thể đạt đến tầm cao không thể tưởng tượng được. Trong sự so sánh, những nhu cầu khiêm tốn của các nhà lý thuyết queer về từ vựng mới và không gian tự do cho thấy họ bị giới hạn như thế nào trong ranh giới hạn hẹp của chủ nghĩa tư bản.

Tất nhiên, điều này không có nghĩa là những thành tựu về văn hóa sẽ xảy ra “một cách tự động” hay chỉ bằng cách đơn giản là chiếm đoạt các tập đoàn và ngân hàng lớn. Nhưng chúng ta phải nắm bắt mối quan hệ thực sự giữa cơ sở vật chất và văn hóa, giữa cách mạng và ngôn ngữ một cách cụ thể.

Hành động của cách mạng có nghĩa là sự tham dự của quần chúng vào giai đoạn lịch sử. Đó là quá trình quần chúng tự mình nắm lấy vận mệnh của chính mình và không chịu để cho cuộc sống bị người khác sai khiến. Trong tất cả các cuộc cách mạng lịch sử, quần chúng lao động đã giải phóng sự sáng tạo đáng kinh ngạc và bắt đầu loại bỏ những rác rưởi của xã hội cũ.

Trong bài văn của mình, cuộc đấu tranh cho ngôn ngữ văn hóa, Trotsky đã mô tả làm thế nào, sau Cách mạng Nga, cuộc đấu tranh chống lại ngôn ngữ lăng mạ và chửi thề được thực hiện. Ở một đất nước cực kỳ lạc hậu chỉ vừa mới bắt đầu thực hiện nhiệm vụ cách mạng hóa xã hội, ở thời điểm mà “triết lý của ngôn ngữ” thậm chí còn chưa phải là một thuật ngữ, công nhân từ một nhà máy giày có tên là “Công xã Paris” đã quyết định thành lập một hội đồng chung để dập tắt nói tục tại nơi làm việc của họ và để áp dụng hình phạt nếu quyết định bị vi phạm. Trotsky viết:

“Cuộc cách mạng, trước hết và trên tất thảy, là sự thức tỉnh của nhân loại, hành quân lên phía trước, và ghi dấu ấn bằng sự tôn trọng ngày càng tăng đối với phẩm giá cá nhân của mỗi người, bằng mối quan tâm ngày càng tăng đối với những người yếu đuối. Và làm thế nào người ta có thể tạo nên, ngày qua ngày, nếu chỉ từng chút một, một cuộc sống mới dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau, trên lòng tự tôn, trên sự bình đẳng thực sự của phụ nữ, người được xem là đồng chí của các công nhân, trên sự chăm sóc hiệu quả của những đứa trẻ - mà trong bầu không khí vẫn bị đầu độc bởi những tiếng chửi rủa om sòm, ầm ĩ, lanh lảnh và chói tai của những ông chủ và nô lệ, tiếng chửi rủa không chừa một ai và không thôi ở bất kỳ đâu? Cuộc đấu tranh chống lại ‘lời tục tĩu’ là một điều kiện của văn hóa trí tuệ, giống như cuộc chiến chống lại sự bẩn thỉu và lũ sâu mọt là một điều kiện của văn hóa thể chất.” (Cuộc đấu tranh cho ngôn ngữ văn hóa, Trotsky)

Cuộc đấu tranh này không phải là tuyến tính, cũng không dễ dàng, bởi vì ý thức phát triển theo cách mâu thuẫn. Như Trotsky đã chỉ ra trong cùng một bài văn:

“Một người đàn ông, một người cộng sản tận tụy với sự nghiệp, nhưng phụ nữ đối với anh ta chỉ là “đàn bà”, không đáng coi trọng theo bất kỳ cách nào. Hoặc như đã xảy ra ở một người cộng sản đáng tin cậy khác, khi thảo luận về các vấn đề dân tộc, anh ấy bắt đầu nói đến những thứ phản động đáng thất vọng. Để giải thích cho điều đó, chúng ta phải nhớ rằng các phần khác nhau của ý thức con người không thay đổi và phát triển đồng thời và trên các đường song song. Có một nền kinh tế nhất định trong quá trình. Tâm lý con người rất bảo thủ, và sự thay đổi là do sự đòi hỏi và thúc ép của cuộc sống thứ tác động trước tiên lên phần tâm trí có liên quan trực tiếp tới vấn đề.” (Sách đã dẫn)

Cuộc đấu tranh cho cho một nền văn hóa của tình đồng chí, nhân văn vì thế không chỉ đơn giản được kết thúc và hoàn thành chỉ sau một cuộc cách mạng. Tuy nhiên, cuộc cách mạng tạo ra các điều kiện trong đó cuộc đấu tranh thống nhất, chung cho một nền văn hóa như vậy có thể được phát triển một cách tự do và thực sự tự quyết. Điều này đã được hỗ trợ tích cực sau Cách mạng Nga, khi các nhà cách mạng nữ được gửi đi khắp cả nước và thúc đẩy các chương trình giáo dục lớn và các nỗ lực tổ chức. Phong trào Zhenotdel này sau đó đã bị Stalin đóng cửa vào năm 1930. Trotsky nói, về vai trò của các nhà cách mạng nữ này, rằng họ phải giống như những cỗ xe công thành trong tay một xã hội xã hội chủ nghĩa để đập tan chủ nghĩa bảo thủ và những định kiến ​​cũ.

“Một lần nữa, vấn đề lại vô cùng phức tạp và không thể giải quyết được chỉ bằng việc dạy học và sách vở: gốc rễ của những bất đồng và những mâu thuẫn tâm lý nằm ở sự vô tổ chức và hỗn độn trong những điều kiện mà con người sống. Tâm lý, suy cho cùng, được quyết định bởi cuộc sống. Nhưng sự phụ thuộc không hoàn toàn là máy móc và tự động: nó chủ động và có đi có lại. Vấn đề có tầm quan trọng là phải tiếp cận theo nhiều cách khác nhau - cách mà những người đàn ông của nhà máy 'Công xã Paris' làm là một trong số chúng. Tôi xin gửi lời chúc thành công tới họ.” (Sách đã dẫn)

Một vực thẳm ngăn cách giữa các chiến dịch quản lý phê duyệt, tokenist LGBT ngày nay, nơi mà sự xa lánh với khai thác giai cấp và tâm lý bởi chính chúng ta vẫn được duy trì, với chiến dịch được tổ chức bởi các công nhân của nhà máy giày “Công xã Paris”, những người có toàn quyền kiểm soát điều kiện làm việc của riêng họ - bao gồm cả văn hóa ngôn ngữ! Thật không khó để tưởng tượng cái nào trong hai cái này sẽ bắt rễ sâu hơn và triệt để hơn.

Mục tiêu nhằm đạt được một nền văn hóa và ngôn ngữ nhân văn là điều dễ hiểu và đúng đắn, nhưng định hướng chính trị tạo ra một ngôn ngữ bình đẳng mới, mà không giải quyết bất bình đẳng xã hội thực sự là một ảo tưởng nguy hiểm và cuối cùng, dẫn tới bế tắc. Một nền văn hóa thực sự nhân văn và tự do sẽ được sinh ra từ cuộc đấu tranh chung để giải phóng giai cấp công nhân, điều này sẽ hun đúc ý thức của chúng ta, sẽ phá vỡ các thế hệ định kiến ​​và vứt bỏ những phân biệt đối xử quái gở, phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, bạo lực và hạ thấp phụ nữ cùng người thiểu số vào thùng rác của lịch sử.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng: chúng ta có nên tự gọi mình là Queer-Marxist không?

Những gì chúng tôi giải thích ở trên đã chỉ ra rằng, bắt đầu với sự hiểu biết về thế giới thực sự là gì, về cách (hoặc nếu) chúng ta có thể thay đổi nó và với những kết luận thực tế xuất phát từ điều này, Lý thuyết Queer và Chủ nghĩa Marx là những lý thuyết không thể dung hòa được. Tuy nhiên, hết lần này đến lần khác, vẫn có những nỗ lực được thực hiện để kết hợp chúng và miêu tả chúng là tương thích lẫn nhau.

Hiếm khi những nỗ lực này đi xa hơn một nỗ lực vụng về để gán cho chủ nghĩa Marx một nhãn hiệu cho có vẻ cấp tiến, để rồi làm sai lệch hoàn toàn bản chất của nó trong quá trình này. Tuy vậy vẫn có một số người cánh tả, với ý định trung thực không phải nghi ngờ gì, cho rằng chúng ta nên chấp nhận nhãn hiệu “Queer Marxism”.

Lập luận phổ biến nhất được đưa ra bởi những người này là “thứ gì đó còn thiếu” từ chủ nghĩa Marx, tức là sự thiếu hiểu biết cụ thể về áp bức tình dục. Rõ ràng là với bài viết này thôi đã đủ cung cấp cho chúng ta lý lẽ để chống lại những tuyên bố này.

Tuy nhiên, một lập luận phổ biến khác liên quan đến chiến thuật, ít nhiều như thế này: người ta nên đứng trên một cơ sở vững chắc, cơ sở của chủ nghĩa Marx, nhưng để làm cho chủ nghĩa Marx hấp dẫn hơn đối với mọi người thuộc mọi bản sắc, và bởi vì tiếng xấu của nó, tự gọi mình là Queer Marxist có thể gửi một tín hiệu rõ ràng về sự bao quát. Và nó có hại gì nếu nó không có tác động tức thì? Nếu nó không giúp được gì thì cũng không đến nỗi làm tệ hơn. Hãy tranh luận về vấn đề này.

Một minh chứng tương đối rộng rãi về lối suy nghĩ này được Holly Lewis cung cấp trong cuốn sách Chính trị cho mọi người (2016) mà chúng ta sẽ giải quyết ngắn gọn ở đây.

Trong cuốn sách của mình, Lewis đề cập một cách e dè rằng “cách tiếp cận của chủ nghĩa duy vật của Marx đã cũ và lỗi thời”, bao gồm cả định hướng của nó đối với giai cấp công nhân để thay đổi thế giới. (Lewis, p. 91.) Cô ấy đã viết cuốn sách của mình với mục đích khiến cho chủ nghĩa Marx hấp dẫn hơn với các nhà hoạt động queer và nữ quyền và ngược lại khiến cho những người Marxist làm quen với chính sách và nguồn gốc của chính trị nữ quyền, queer và chuyển giới. (Lewis, trang 14)

Nhìn bề ngoài, chủ nghĩa Marx Queer trong mắt một số người có thể như là một cách tốt để tranh thủ những người queer đến với chủ nghĩa Marx và hòa nhập họ vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Nhưng tuyên bố rằng chúng ta cần một “Chủ nghĩa Marx Queer” chắc chắn dẫn đến con đường phân biệt nó với “chủ nghĩa Marx cổ điển”, chính xác là để biện minh tại sao phải có một chủ nghĩa Marx Queer ngay từ đầu. Điều này tạo ra một vết nứt giữa hai bên và mở ra cánh cửa mà thông qua đó các ý tưởng xa lạ về giai cấp và sự nhượng bộ về ý thức hệ thấm vào.

Sau khi dành tới một phần ba cuốn sách của mình để cố gắng giải thích các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx, Holly Lewis đã đến chính xác điểm này. Là một nhà nữ quyền Queer Marxist, cô muốn kết hợp các quan điểm queer, chuyển giới và liên giới tính vào chủ nghĩa duy vật, phân tích Marxist về giới tính và giới. (tr.107)

Và những quan điểm cụ thể này là gì, thứ mà theo quan điểm của cô ấy có thể giải thích các hình thức áp bức cụ thể tốt hơn so với chủ nghĩa Marx “nhàm chán tầm thường”? Ở đây, tất cả các lập luận cũ đều không được mở ra, chẳng hạn như Marx và Engels đều là sản phẩm của thời đại của họ và do đó, tất nhiên, thành kiến giới tính, Engels là một kẻ phân biệt giới tính nhiều hơn là Marx. Sau đó, cô đặt ra, như những người theo chủ nghĩa xét lại thường làm, một mâu thuẫn được cho là giữa Marx và Engels, với người sau được cho là không nắm bắt đúng bản chất của sự áp bức của phụ nữ, mà cuốn sách của ông là Nguồn gốc của gia đình, tài sản tư nhân và Nhà nước xác nhận rõ ràng. Bà bác bỏ sự hiểu biết của chủ nghĩa Marx về vai trò của gia đình trong chủ nghĩa tư bản và dần dần làm suy yếu nền tảng của chủ nghĩa Marx, bao gồm cả phân tích lịch sử - duy vật. Liên quan đến câu hỏi về giới tính, cuối cùng cô đã đi đến điểm của những công thức mơ hồ và không rõ ràng về sự tồn tại (trong) của giới.

Tuy nhiên, ngay cả trên nền tảng triết học mờ nhạt này, cô gần như không thể sử dụng bất kỳ khía cạnh nào của Lý thuyết Queer theo một cách tích cực. Cô chỉ có thể tìm thấy một cọng rơm để nắm bắt: khái niệm về hiệu suất, trong đó quy định rằng vai trò giới được nội tâm hóa thông qua các hành động lặp đi lặp lại.

“Xa với sự mâu thuẫn với phân tích duy vật, sự can thiệp của Butler phù hợp một cách tuyệt vời với các quan niệm về ý thức hệ của Fields như một sự lặp lại của các hành động bắt nguồn từ các mối quan hệ xã hội, nhưng các hành động tiếp tục được bình thường hóa thông qua thói quen, kinh nghiệm và logic tổ chức của một xã hội nhất định.” (Lewis, trang 199.)

Và do đó, Chủ nghĩa Marx và Lý thuyết Queer được trình bày, không phải là loại trừ lẫn nhau hay phục vụ lợi ích giai cấp khác nhau, mà là cùng tồn tại một cách hòa bình, với mỗi bên có thể mượn từng phần và từng mảnh và trộn chúng lại với nhau một cách ngớ ngẩn.

Chúng ta cần phải rõ ràng ở đây. Chủ nghĩa Marx dựa trên một tập hợp các quy luật có nguồn gốc từ tự nhiên và do đó, chúng ta càng hiểu biết sâu sắc về khoa học, chúng ta càng có thể phát triển các quy luật chung này. Cần phải liên tục kiểm tra một khi phân tích đi ngược lại thực tế và, nếu cần thiết, điều chỉnh nó, cũng như khám phá các hiện tượng mới một cách sâu sắc và kỹ lưỡng. Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn khác với đầu hàng trước tư tưởng tư sản và thỏa hiệp với chủ nghĩa duy tâm.

Sai lầm lớn nhất của Lewis là không giải thích rằng các ý thức hệ được củng cố trong tâm trí mọi người thông qua các nghi lễ và sự thực hành (đó là một sự thật, khá trần tục, dễ thấy), bởi thế, bắt đầu từ chi tiết này, cô ấy khiến Lý thuyết Queer trông như “một đồng minh” chấp nhận được. Rốt cục, mấu chốt của vấn đề là cô không hiểu được hậu quả của hệ tư tưởng tư sản đối với giai cấp công nhân, và vai trò của các nhà lãnh đạo và trí thức quan liêu, những người nắm giữ các ý thức hệ này trong phong trào và các tổ chức của giai cấp công nhân.

Giai cấp thống trị có nhiều cách làm hỏng sự lãnh đạo của phong trào công nhân và hỗ trợ những cá nhân trong phong trào ủng hộ và truyền bá tư tưởng (tiểu) tư sản. Có những công việc trong chính phủ và bộ máy nhà nước được trao cho cái được gọi là “quan hệ đối tác xã hội” giữa nhà tư bản và lao động, qua đó các quan chức của công đoàn và các công nhân của đảng tiếp xúc trực tiếp với giai cấp tư sản. Thay vì bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, đối với họ, công nhân chỉ đơn giản là những con tốt có thể được di chuyển để bảo vệ các vị trí quan liêu của chính họ. Họ muốn bật và tắt các cuộc đấu tranh của công nhân như vòi nước, để tăng cường sức mạnh thương lượng của họ. Các hệ tư tưởng tiểu tư sản như nữ quyền giúp chuyển sự chú ý ra khỏi cuộc đấu tranh giai cấp, nhưng là một hình ảnh cánh tả, nó được các quan chức nhiệt tình tung hô để phục vụ cho lợi ích của chính họ. Trí thức tại các trường đại học được tài trợ, vị trí và tổ chức nghiên cứu của họ phát triển những ý thức hệ này để biện minh cho thực tiễn của họ và, dù ý thức được hay không, nó ném cát vào mắt các nhà hoạt động đang tìm kiếm câu trả lời.

Trong bản tóm tắt, Lewis đồng ý rằng lý thuyết Queer và những thứ tương tự thực sự có thể được sử dụng theo cách phản động, và chúng là một biểu hiện của một giai cấp tiểu tư sản bấp bênh về kinh tế. Tuy nhiên, cô im lặng về vai trò cụ thể mà các hệ tư tưởng này đóng góp trong các phong trào xã hội. Do đó, cô cuối cùng phục vụ như một lá sung cho cải cách và quan liêu. Điều này trở nên rõ ràng bất cứ khi nào cô viết về các sự kiện lịch sử cụ thể, ví dụ như sự phản bội của Quốc tế thứ hai.

Năm 1914, hầu hết các đảng công nhân ở châu Âu thời điểm đó đã thống nhất trong Quốc tế thứ hai để bỏ phiếu ủng hộ trong các nghị viện quốc gia tương ứng của mình các khoản tín dụng chiến tranh cho Thế chiến thứ nhất. Do đó, họ đã thừa nhận một cuộc chiến tranh đế quốc vì lợi ích của các nhà tư bản. Chỉ một số ít các nhà cách mạng, bao gồm Lenin và Rosa Luxemburg, đã chống lại làn sóng của chủ nghĩa sô vanh này. Làm thế nào mà Lewis giải thích sự phản bội lịch sử này của lãnh đạo xã hội dân chủ?

Theo bà, đại diện của các đảng dân chủ xã hội đã đồng ý tham gia WWI và đầu hàng trước chủ nghĩa sô vanh quốc gia bởi vì Eduard Bernstein và Karl Kautsky, trong các tác phẩm của họ như Chương trình Erfurt, đã phổ biến cách hiểu hời hợt về những ý tưởng của Karl Marx, và “những biến dạng như vậy rốt cục đã khiến các thành viên của Quốc tế thứ hai biểu quyết cho các đảng xã hội ủng hộ các quốc gia tương ứng của họ trong Thế chiến I.” (Lewis, trang 63)

Mô tả này, tuy nhiên, đã lật nhào sự thật, bởi vì nó đã bỏ qua bối cảnh mà trong đó các biến dạng của chủ nghĩa Marx xuất hiện vào khoảng thời gian đó. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, một tầng lớp các quan chức đã quen với cuộc sống khá thoải mái của họ với tư cách là nghị sĩ, và trước một thời kỳ bùng nổ kinh tế kéo dài, tuyên bố cách mạng là không cần thiết. Sự phản bội của họ không đơn giản là một sự hiểu lầm những lời dạy “thuần khiết” trong Tư bản, không chỉ là một trận chiến ý thức hệ trên địa hình bình đẳng, mà còn thể hiện một tầng lớp quan liêu trong các đảng công nhân, những người thích vị trí thoải mái của họ cho cuộc xung đột giai cấp khắc nghiệt, bao gồm cả cuộc chiến tranh cách mạng chống lại các nhà tư bản ở quốc gia của họ. Kết quả không chỉ là một sự sai lệch về ý thức hệ, mà còn chuyển thành sự ủng hộ trực tiếp cho sự tàn sát hàng loạt công nhân trong chiến tranh, và sự phản bội của nhiều phong trào cách mạng trong những năm sau chiến tranh: ở Đức, Áo, Hungary, v.v. Đây cũng là cách mà thời cơ để giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội quốc tế vốn đã chắc trong tầm tay rồi lại để bị nhấn chìm trong máu, và cuối cùng dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít ở châu Âu.

Mô tả của Lewis về các công đoàn ở Hoa Kỳ trong những năm 1980 và 1990 đi theo cùng một hướng, bỏ qua vai trò tiêu cực của bộ máy quan liêu trong phong trào. Tìm cách giải thích lý do tại sao các tổ chức truyền thống của tầng lớp lao động lại ít tổ chức cho những người queer và người chuyển giới, cô viết:

“Tuy nhiên, sự thất bại có thể không nằm ở chính sách hay thói quen của các đoàn thể và tổ chức, mà thực tế là ở chính các tổ chức lao động và xã hội chủ nghĩa đã làm suy thoái ảnh hưởng của mình đối với giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tân cổ điển. Trớ trêu thay, người đồng tính và chuyển giới thuộc tầng lớp lao động có thể biến đổi chính sách của giai cấp công nhân bằng cách củng cố các cấu trúc sa đọa trong quyền lực của giai cấp công nhân.” (trang 165.)

Và:

“Sự thiếu thốn các công việc đã dẫn đến sự suy giảm liên tục của tư cách thành viên công đoàn trong những năm 1980 và 1990. Đối với tất cả những bất cập của các hiệp hội doanh nghiệp Mỹ, nó sẽ đòi hỏi một phong trào lao động quốc tế mạnh mẽ để thách thức chủ nghĩa tân cổ điển.” (trang 208-9.)

Vì vậy, theo cô ấy, những lý do cho sự suy giảm thành viên công đoàn là gì? Đối với cô, điều này diễn ra là bởi “chủ nghĩa Tân cổ điển”, thứ đã gây áp lực nên các công đoàn với những mối đe dọa từ bên ngoài. Lý do nghiêm trọng thứ hai mà cô đưa ra là sự yếu kém của phong trào công đoàn quốc tế, và chỉ sau những yếu tố này, cô mới thấy rằng bằng cách nào đó có mối liên quan với việc các công đoàn có lập trường ủng hộ doanh nghiệp.

Mô tả này thực sự đưa đến kết luận rằng bất kỳ cuộc đấu tranh nào tại thời điểm đó là vô ích để bắt đầu. Nó cũng bao hàm vai trò của bộ máy quan liêu công đoàn cánh hữu đang âm thầm quan sát khi một số cuộc tấn công lớn của các ông chủ và chính phủ đã được thực hiện. Ví dụ, khi tổng thống Reagan đã phá vỡ cuộc đấu tranh PATCO của các kiểm soát viên không lưu vào năm 1981 bằng cách sử dụng những kẻ phá hoại đình công và sau đó cấm 19.000 công nhân làm việc trong lĩnh vực này một lần nữa, các nhà lãnh đạo của AFL-CIO thậm chí không nghĩ đến việc tổ chức các cuộc đình công đoàn kết để bảo vệ các công nhân PATCO. Năm 1995, lãnh đạo AFL-CIO đã đóng cửa bộ phận quốc tế của họ và thay thế nó bằng một “trung tâm đoàn kết”, người đã nhận được 90% ngân sách từ nhà nước và, ví dụ, ủng hộ cuộc đảo chính năm 2002 chống lại tổng thống Venezuela Hugo Chavez. Do đó mà họ đã trực tiếp góp mình vào hiện trạng tồi tệ trong đó phong trào công nhân quốc tế tìm thấy chính mình! Nhiều tiền của liên đoàn đã được sử dụng để tài trợ cho bộ máy đảng của đảng Dân chủ hơn là để tổ chức các chiến dịch cho quyền của người lao động. Và danh sách còn kéo dài. Điều này rõ ràng cho thấy rằng bất kỳ dòng lập luận nào bỏ qua vai trò cụ thể của chế độ quan liêu chắc chắn sẽ kết thúc trong sự che đậy lập trường phản bội của họ.

Thất bại để hiểu được các phong trào thực sự và sự lãnh đạo của họ tiến triển như thế nào, và làm thế nào mà các hệ tư tưởng (tiểu) tư sản đã đóng vai trò phản cách mạng trong phong trào dẫn đến kết luận sai lầm rằng câu hỏi về “Lý thuyết Queer với chủ nghĩa Marx” là một cuộc cạnh tranh công bằng giữa hai ý tưởng có giá trị như nhau.

Ngoài ra các nhà tư bản không chỉ gây áp lực lên các nhóm thiểu số và các tầng lớp bị áp bức của xã hội, mà còn đối với các nhà cách mạng. Trong các công đoàn, các quản lý cơ sở thẳng thắn bị cô lập, trong các đảng quần chúng của công nhân, những người Marxist bị phỉ báng hoặc trục xuất, và trong thị trường việc làm nói chung không phải là ứng cử viên tốt nhất để trở thành thành viên của bất kỳ tổ chức cách mạng nào.

Điều cực kỳ cần thiết là bảo vệ vững chắc các ý tưởng của chủ nghĩa Marx nếu chúng ta muốn giành chiến thắng trong các cuộc cách mạng, thay vì thất bại. Tuy nhiên, chúng ta phải tính đến thực tế là giai cấp thống trị và tay sai của họ sẽ luôn cố gắng làm cho điều này trở nên khó khăn nhất có thể. Các học giả những người cố gắng tước đoạt bản chất cách mạng của chủ nghĩa Marx nhân danh một số ý tưởng mới hoặc hợp thời không chỉ đơn giản phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị bằng cách tiếp nhận những gì có thể xuất hiện như những “ý tưởng vô hại”, mà về cơ bản là tư sản - Chủ nghĩa nữ quyền, với tất cả các ý tưởng của mình về việc đổ lỗi cho đàn ông nói chung vì sự áp bức với phụ nữ, thay vì nhìn thấy sự áp bức này xuất phát từ sự phân chia xã hội thành các giai cấp. Các nhà lãnh đạo cải cách của các công đoàn và Các đảng phái công nhân cũng đã hoàn thiện các kỹ năng của mình trong việc đưa ra các bài phát biểu cấp tiến tại các cuộc họp nội bộ, chỉ để phục vụ như là những kẻ ủng hộ một cách trung thành nhất với chủ nghĩa tư bản.

Đấu tranh thống nhất là vũ khí quan trọng nhất mà giai cấp công nhân sở hữu và có thể giải phóng chúng ta. Chủ nghĩa Marx bảo vệ sự thống nhất này một cách nhất quán cho tới cùng. Do đó, chủ nghĩa Marx đấu tranh để đưa tất cả mọi người, độc lập với nguồn gốc dân tộc, giới tính, bản sắc, tôn giáo, v.v... vào cuộc đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, hệ thống tư bản và mọi hình thức áp bức đi kèm với nó. Chúng tôi từ chối bất kỳ ý thức hệ nào dẫn đến một thực tế ngăn chặn, làm chậm hoặc làm cho cuộc đấu tranh này không thể xảy ra, bất kể nó “hiện đại” như thế nào. Điều này cũng bao gồm Lý thuyết Queer. Cái gọi là “sự cải tiến” chủ nghĩa Marx với những tiện ích bổ sung như Queer hoặc Nữ quyền có nghĩa là làm suy yếu về ý thức hệ của chủ nghĩa Marx. Sự suy yếu này cuối cùng không phục vụ để giành được những người có bản sắc và khuynh hướng tình dục khác nhau đối với phong trào của chúng ta. Trái lại, nó được sử dụng như một phương tiện để theo đó những người tiểu tư sản tham vọng có thể che giấu đằng sau những gì dường như là một vị trí cấp tiến trong khi sử dụng phong trào lao động và các tổ chức của nó để thúc đẩy lợi ích cá nhân của chính họ. Do đó, làm mờ ranh giới phân chia giữa Chủ nghĩa Marx và Lý thuyết Queer là một trở ngại trong cuộc chiến của chúng ta để giải phóng nhân loại khỏi mọi hình thức bóc lột và áp bức.

Chỉ khi chúng ta phá vỡ giai cấp tư sản ở tất cả các cấp (ý thức hệ cũng như thực tiễn hợp tác giai cấp và tham nhũng thông qua tiền nhà nước và các bài đăng từ đó), chúng ta mới có thể lật đổ chủ nghĩa tư bản và nắm lấy vận mệnh của mình. Chúng tôi mời tất cả những người chống tư bản tham gia cùng chúng tôi trong cuộc đấu tranh này.

Nguồn:

- Beauvoir, Simone de (1949/2011): Giới tính thứ hai. Sách cổ điển, New York.
- Butler, Judith (1990/1999): Rắc rối giới tính: Nữ quyền và lật đổ bản sắc. Routledge, New York.
- Butler, Judith (1997): Văn hóa đơn thuần.
- Engels, Friedrich: Ludwig Feuerbach và sự kết thúc của triết học cổ điển Đức.
- Engels, Friedrich: Phép biện chứng của tự nhiên.
- Foucault, Michel (1978): Lịch sử tình dục tập I. Sách Pantheon, New York.
- Foucault, Michel (1982): Vorlesungen zur Phân tích der Machtmechanismen 1978, trong: Der Staub und die Wolke. Verlag Impuls, Bremen.
- Foucault, Michel (1981): Nhận xét về Marx. Cuộc trò chuyện với Duccio Trombadori, Semiotext (e).
- Fraser, Nancy (1997): Chủ nghĩa dị tính, nhận thức sai lầm và Chủ nghĩa tư bản: Phản ứng với Judith Butler, trong: Văn bản xã hội số 52/53, sự quá độ của Queer từ chủng tộc, dân tộc tới giới tính.
- Haug, Franziska (2018): Queerfeministische Solidarität zwischen Kollektivität und Identität [tình đoàn kết nữ quyền giữa tập thể và bản sắc], trong: Zeitschrift für Kultur
-Heyes, Cressida J. (2003): Đoàn kết nữ quyền sau Lý thuyết Queer: Trường hợp của người chuyển giới, trong: Tạp chí Phụ nữ trong Văn hóa và Xã hội, Tập. 28/4.
- Jagose, Annamarie (2001): Lý thuyết Queer: Eine Einführung. Querverlag GmbH, Berlin. (Phiên bản tiếng Đức).
- Kosofsky Sedgwick, Eve (1990): Nhận thức luận về tủ quần áo. Nhà in Đại học California, Berkeley và Los Angeles.
- Lenin: Chủ nghĩa duy vật và phê bình kinh nghiệm chủ nghĩa. Tác phẩm sưu tầm tập 14, Nhà xuất bản tiến bộ, Moscow.
- Lenin: Về câu hỏi biện chứng. Tác phẩm sưu tầm tập 38, Nhà xuất bản tiến bộ, Moscow.
- Lewis, Holly (2016): Chính trị của mọi người: Chủ nghĩa nữ quyền, Lý thuyết Queer và Chủ nghĩa Marx ở Giao lộ. Sách ZED, Luân Đôn.
- Rubin, Gayle S. (1984): Suy nghĩ về tình dục: Ghi chú cho một lý thuyết cấp tiến về chính trị của tình dục.
- Trotsky, Leon (1923): Cuộc đấu tranh cho lời nói có văn hóa.
- Weedon, Chris (1991): Wissen und Erfahrung: feministische nữ quyền Praxis und poststrukturalistische Theorie. efef Verlag, Zürich.

Join us

If you want more information about joining the IMT, fill in this form. We will get back to you as soon as possible.